Cơ sở pháp lý
- Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Bộ luật Hình sự năm 1999 (Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Luật sư tư vấn
Bằng chứng quan trọng nhất để xác định ai có lỗi trong trường hợp này là biên bản hiện trường tai nạn. Biên bản này hoàn toàn do phía công an làm việc, ghi nhận tại hiện trường, cùng những người làm chứng xung quanh. Nên gia đình bạn cần làm việc với bên công an xác nhận lại biên bản hiện trường tai nạn.
Bởi biên bản hiện trường tai nạn giao thông vô cùng quan trọng, khi gia đình bạn được những người chứng kiến thuật lại sự việc là do người đi xe máy tông vào em rể bạn lúc anh ấy qua đường làm anh ấy mất. Trong trường hợp này cần xem xét rõ các yếu tố lỗi từ các bên.
Đối với phía người gây tai nạn: có ai làm chứng cho việc người đó say rượu và tông vào em rể bạn rồi bỏ chạy, người đó điều khiển phương tiện với tốc độ như nào? Vấn đề này cũng rất khó xác minh vì người gây tai nạn bỏ chạy và thời gian xảy ra tai nạn của qua khá lâu rồi. Công an cần kiểm tra nồng độ cồn ngay tại thời điểm gây tai nạn hoặc cần có người làm chứng hay đoạn video ghi lại thời điểm xảy ra tai nạn.
Còn về phía người bị tai nạn, có lỗi gì khi qua đường không quan sát hay không?
Trong trường hợp gia đình bạn không có mặt lúc lập biên bản hiện trường tai nạn, rất có thể biên bản bị lập sai do cái nhìn chủ quan chỉ từ phía người gây tai nạn. Bạn có thể đến gặp bên Công an đề nghị được xem xét nội dung biên bản đó, nếu thông tin trong đó sai hoặc thiếu vì không đề cập đến lỗi của người gây tai nạn, bạn có thể nhờ những người chứng kiến tai nạn và báo cho gia đình bạn biết để đến đối chứng, xác minh lại. Chỉ khi biên bản hiện trường tai nạn xác định được lỗi của người gây tai nạn thì gia đình bạn có thể khởi kiện người gây tai nạn và đòi bồi thường thiệt hại.
Thứ nhất, về trách nhiệm của người gây tai nạn: Như bạn cung cấp thông tin thì người điều khiển xe máy gây tai nạn cho bố chồng bạn và bỏ chạy vì say rượu thì theo quy định tại Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:
“Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”
Như vậy, người lái xe máy trong trường hợp này đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (sử dụng rượu, tuy nhiên chưa có xác định nồng độ cồn trong máu lúc đó, điều này bạn phải yêu cầu xác định rõ lại trong biên bản hiện trường tai nạn) gây thiệt hại đến tính mạng của người khác.Với hành vi này, người gây tai nạn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Tòa án sẽ căn cứ đến các yếu tố như tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác để có quyết định cho phù hợp.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Người điều khiển xe gắn máy gây tai nạn làm chết người phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định tại Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015:
“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”